Năm tháng tĩnh lặng, kiếp này bình yên
Phan_11
Một giọt sương lan thanh nhã tuyệt trần, tựa như một giọt mực vỡ nhỏ trên giấy Tuyên Thành, thấm nhòe hồi ức sặc sỡ. Là thư thánh Vương Hy Chi đã đem thủy mặc hội tụ thành suối lan, dùng ngòi bút như nước chảy mây trôi viết thành “Lan đình tập sự”, để tiếng thơm truyền đến ngàn đời. Lan đình của ngày xưa từng có một cuộc tụ họp mây trắng gió xuân, các danh sĩ Ngụy Tấn đã ký gửi tâm tình vào non nước nơi này, uống rượu ngâm thơ, khi cảm thán chuyện không hợp thời cuộc, khó tránh khỏi bị vạn vật đa tình nơi đây chuốc cho say túy lúy.
Sinh mệnh vốn có rất nhiều cách kiếm tìm, nếu như khi tìm kiếm mà ta có một cõi lòng bình thản ung dung thì ủ dột cũng có thể sáng láng, khốn đốn cũng có thể tỉnh táo. Còn dùng tài cao để cầu danh lợi, chưa chắc đã là hành động của bậc minh trí; dùng sự độ lượng để chứa đựng tự nhiên, lại há chẳng phải là một cuộc đời khoáng đạt hay sao? Khi bạn nhìn lại quá khứ, không biết là ai đã tặng một chén sương trong vắt trên cành u lan, quay người nhìn lại, nàng đã biến mất trong ngõ đá mưa khói mất rồi.
Ánh dương mềm dịu cháy tan theo từng lớp ngói đen, trong khoảnh khắc bạn chớp mắt, những lá tửu kỳ[2] phất phơ đón gió có thể thấy ở bất cứ nơi đâu, gấp gáp muốn chỉ cho bạn thấy bình rượu ngon đã bị thời gian Thiệu Hưng ủ kín. Cho dù bạn có kìm nén được trước sự mê hoặc của mùi rượu thơm hay không, bạn đều không thể tự chủ mà chọn một quán rượu, bước qua bậu cửa gỗ cũ mèm, say tỉnh mặc sức thỏa ý.
[2] Tửu kỳ: Lá cờ bằng gấm, trên thêu chữ “Tửu” (rượu) thường được treo trước quán rượu, nhà hàng thời cổ để đánh dấu và mời mọc khách quan.
Trong phòng tràn ngập mùi rượu thơm nồng, bạn chưa nếm rượu thì đã ngà ngà say. Bộ bàn ghế gỗ cổ, những khách uống rượu đến từ trời nam đất bắc ngồi vây quanh, không ai hỏi ai từ đâu đến, đi về đâu, một bình Hoa Điêu đã chuốc say mọi cuộc đời buồn vui sướng khổ của mỗi người. Câu chuyện của mỗi người đều là một vò rượu cũ chôn sâu, bạn mượn cây kéo thời gian nhàn tản của Thiệu Hưng để mở nó ra, trong ánh nắng nhàn nhạt, đôi mắt ngây ngây, nhớ lại ngày hôm qua đầy biến động của chính mình.
Chỉ như thời gian được thưởng thức một chén rượu, chuyện cũ chớp mắt đã mười năm. Tuế nguyệt trong chén rượu không còn sắc nhọn, nó sẽ không truy đuổi bạn, bạn có thể uống đến say mèm, từ sáng sớm bình minh, đến khi đêm về trăng lên, cũng chỉ có một ngọn đèn thắp sáng vì bạn. Khi bạn nhìn thấy một chiếc áo dài cũ rách, và lầm tưởng đó là Khổng Ất Kỷ[3], mới hay rằng, mình đã say thật rồi. Khi tỉnh lại, câu chuyện của bạn đã kết thúc, khi say mèm, câu chuyện của người khác lại mới bắt đầu.
[3] Khổng Ất Kỷ: Một nhân vật trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Lỗ Tấn.
Giả như bạn là một khách từ phương xa tới, không kiềm lòng được trước sự cổ kính của sông nước, nói không chừng sẽ lạc lối trong một ngõ nhỏ man mác khói xanh nào đó, không nhớ nổi đường đến. Hoặc là bị cơn gió thoảng lãng quên trên một cây cầu không biết tên nào đó, không biết được đường về. Lúc ấy, bạn chỉ cần tìm nơi có nước chảy, tại bất cứ một bến đậu nào, những phu thuyền trên những con thuyền mui đen ấy, sẽ đưa bạn đến mọi nơi có liên quan đến Thiệu Hưng.
Mỗi một cây cầu cổ là một điểm dừng chân của nhân sinh, mỗi một bến đò là một khởi đầu của vận mệnh, bạn đặt người khách qua đường đi lướt qua nhau trước một song cửa sổ sát dòng nước, rồi lại gửi gắm phong cảnh mà bạn du ngoạn vào chân trời phù vân. Bạn cho rằng cách xa sông nước là có thể đặt chân lên đất liền, mặc cho gió dập mưa vùi, ai có hay rằng, quanh đi quẩn lại sẽ lại quay về trên chiếc thuyền mui đen. Ở nơi đây, sông nước là dòng chảy, bạn muốn đến bờ bên kia, thì buộc phải di chuyển trên dòng nước. Người có trí tuệ sẽ hiểu được chân lý “tòng thiện như nước chảy”, “nhu có thể khắc cương”, và tấm lòng dù rộng lớn đến đâu, cũng chẳng vượt nổi sự mênh mông của nước.
Chảy xuôi theo dòng, không cần đo đếm độ dài của dòng chảy, để lịch sử đã hé mở chìm sâu dưới đáy nước, để câu chuyện chưa từng được đọc trôi nổi trên mặt nước. Trong kết cục đi tìm khởi đầu mới, nói cho cơn gió nhẹ hay rằng, bạn sẽ đến vườn Thẩm, sẽ tìm kiếm một giấc mộng cũ bi thương thời Tống. Nói với mây trắng rằng, bạn sẽ đến vùng thôn quê, yên lặng ngắm sân khấu đã già nua của tuổi xuân.
Ly biệt ngắn ngủi là để có niềm vui lúc trùng phùng, ly biệt vĩnh viễn lại là một vẻ đẹp không thể tả bằng lời của nhân sinh. Bạn từng hồi tưởng sâu sắc về sông nước, có một ngày, sông nước cũng sẽ lờ mờ nhớ lại bạn của ngày hôm qua.
Gặp gỡ vườn Thẩm
Hồng tô thủ, hoàng đằng tửu, mãn thành xuân sắc cung tường liễu. Đông phong ác, hoan tình bạc, nhất hoài sầu tự, kỷ niên ly sách, thác, thác, thác!
Xuân như cựu, nhân không sấu. Lệ ngân hồng ấp giao tiêu thấu. Đào hoa lạc, nhàn trì các, sơn mình tuy tịa, cẩm thư nan thác, mạc, mạc, mạc!
(Tống, Lục Du, “Thoa đầu phượng”)
(Dịch thơ Nguyễn Xuân Tảo:
Tay trắng muốt, rượu vàng rót, cây liễu cung sân xuân cách bức. Gió đông dữ, tình thắm lỡ, một mối tơ sầu, bao năm tan vỡ. Dở, dở, dở!
Xuân như trước, người gầy rạc, ngấn lệ đỏ ngầu khăn lụa ướt. Hoa đào rữa, lầu gác trở. Non thề còn kia. Chớ, chớ, chớ!)
Thế tình bạc, nhân tình ác, vũ tống hoàng hôn hoa dịch lạc. Hiểu phong can, lệ ngân tàn, dục tiên tâm sự, độc ngữ tà lan. Nan, nan, nan!
Nhân thành các, kim phi tạc, bệnh hồn thường tự thu thiên tác. Giốc thanh hàn, dạ lan san, phạ nhân tầm vấn, yên lệ trang hoan. Man, man, man!
(Tống, Đường Uyển, “Thao đầu phượng”)
(Dịch thơ Đông A:
Tình đời bạc, tình người ác, mưa tiễn hoàng hôn hoa tan tác. Gió mai lan, lệ hoen tàn, muốn thư tâm sự, rặt ý lan man. Nan, nan, nan!
Người đơn bạc, nay mai khác, bệnh lòng như thể ngàn thu tạc. Tiếng tù vang, bóng đêm tan, sợ người tra hỏi, nuốt lệ tân trang. Gian, gian, gian!)
Chưa một ai bước vào vườn Thẩm[4] mà cảm giác như gió mưa quay về, cho dù cảnh trí và sự tích nơi đây đã sớm lặp lại hàng trăm ngàn lần trong giấc mơ của bạn. Nhưng rốt cuộc bạn chỉ là một áng mây màu phiêu lãng, có lẽ bạn có thể nhận ra mối tình quá khứ năm xưa của vườn Thẩm, nhưng lại không có một cành cây ngọn cỏ nào nơi đây đợi chờ bạn. Nếu như nói là đến đây để hồi tưởng, thì cái bạn hồi tưởng là ký ức của Lục Du; nếu như bạn nói là đến đây để tìm mộng, thì cái bạn tìm kiếm là mộng cảnh của Đường Uyển. Vườn Thẩm như một hồ nước xuân sáng như gương, có thể soi bóng chuyện cũ ngày xưa một cách rõ ràng, nhưng bạn vĩnh viễn chỉ là một kẻ bên ngoài nhìn vào, mà không thể là người bước vào trong tấm gương.
[4] Vườn Thẩm (Thẩm viên): là khu vườn cảnh nổi tiếng đời Tống ở Thiệu Hưng, gắn liền với câu chuyện tình bi thảm của nhà thơ Lục Du và người vợ Đường Uyển. Năm 20 tuổi, Lục Du kết duyên cùng người em họ Đường Uyển, hai người là thanh mai trúc mã, vừa tâm đầu ý hợp, thi thư xướng họa, nhưng Đường Uyển lại bị mẹ chồng ghét bỏ, bà buộc Lục Du phải bỏ Đường Uyển, Lục Du đành phải chia tay Đường Uyển, nhưng vẫn lén thuê nhà riêng để hai vợ chồng có thể gặp gỡ. Sau này mẹ Lục Du phát hiện, đến tận nơi mắng nhiếc, khiến Lục Du và Đường Uyển phải chia tay thật sự. Lục Du cưới vợ khác, còn Đường Uyển lấy Triệu Sĩ Trinh. Hơn mười năm sau, Lục Du dạo chơi vườn Thẩm, tình cờ gặp Đường Uyển và chồng, Đường Uyển kể hết cho Triệu Sĩ Trinh, Triệu Sĩ Trinh là người cao thượng, không những cảm thông mà còn cho phép vợ làm tiệc rượu đãi Lục Du. Lục Du đã đề một bài từ trên tường để bày tỏ nỗi lòng mình, chính là bài “Thoa đầu phượng”. Đường Uyển đọc xong cũng cảm động, đề một bài từ đáp lại. Sau buổi hôm ấy, Đường Uyển buồn rầu nghĩ ngợi, rồi ốm mà mất. Cái chết của nàng khiến Lục Du đau khổ, ân hận suốt đời, không thể nguôi ngoai.
Mặc dầu chỉ là một hạt bụi trần lơ lửng giữa thời gian của vườn Thẩm, nhưng vì khúc thiên cổ tuyệt xướng đó, mà du khách như nước lũ đến dạo quẩn quanh trong vườn như xưa. Đương nhiên, cánh cửa dày nặng đã từng đóng im ỉm đó của vườn Thẩm đã ung dung mở ra chào đón tất cả mọi người. Vườn Thẩm vốn là một khu vườn của họ Thẩm ở Giang Nam, cho dù thấm đẫm trăng sáng thời Tống, lại trôi qua mây nước Minh, Thanh, còn nhuốm màu mưa khói thời nay, nhưng năm tháng ở nơi này trước sau vẫn dừng lại trong một bài từ tên là “Thoa đầu phượng”.
Là “Thoa đầu phượng” của Lục Du và Đường Uyển, cũng là vườn Thẩm của Lục Du và Đường Uyển. Họ bị hiện thực tàn khốc chia cắt vận mệnh, trở thành tù nhân của lễ giáo phong kiến, mà vườn Thẩm lại tạo cho họ một vận mệnh khác, khiến ly biệt có thể trùng phùng đầy thương cảm, khiến tan vỡ có thể viên mãn một cách tàn khuyết. Dù cho suốt đời chẳng được bên nhau, nhưng họ lại trở thành một phong cảnh chẳng thể chia lìa trong vườn Thẩm, vườn Thẩm cũng nhờ câu chuyện của họ, mà trở thành một địa điểm khiến người ta phải nhẫn nại nghiền ngẫm nghĩ suy.
Thảng như bạn không muốn làm một người cổ hủ, khi đến vườn Thẩm, không nhất thiết phải mang theo sắc thái bi thương, không cần phải thở than đau đáu, cũng không cần phải cảm thấy trống trải chua xót. Bởi vì, nơi đây đã từng có cuộc ly biệt rõ ràng sáng tỏ, cũng đã từng có những hồi ức tươi đẹp khôn xiết. Bất cứ vương vấn vô cớ nào, đều là sự hốt hoảng không tên. Phong cảnh nơi này, câu chuyện nơi này, sẽ không khiến ai vô tình bỏ lỡ, và cũng không vì ai cố ý dừng lại. Đi theo những dấu tích thưa thớt còn sót lại của câu chuyện xưa, bước đi trong giấc mộng cũ của mưa gió vườn Thẩm, bạn có thể cảm động, nhưng không nên bi thương; bạn có thể say đắm, nhưng không nên mơ hồ.
Vườn Thẩm năm đó kỳ thực đã bị chôn vùi trong gió bụi thời gian, chính những người đời sau vì đi tìm giấc mộng, nên đã trùng tu lại di tích lịch sử còn sót lại này, để người đời có thể nhìn thấy được tình cảnh năm xưa từ những cảnh vật hiện thời mà mình có thể chạm tay vào được. Không người nào so đo xem vườn Thẩm trước mắt có chân thực như xưa không, bởi vì bạn nhắm mắt lại là có thể ngửi thấy mùi hoa thơm, nghe thấy tiếng mưa rơi, còn có cơn gió thoảng nhè nhẹ bước đi trong vườn, hết thảy đều đang nói với bạn, là thật, chân thực như mộng cảnh, và mộng cảnh cũng là chân thực.
Bước vào khu vườn vốn là bối cảnh sáng tác đó, chỉ mấy chữ “bối cảnh sáng tác” đã khiến bạn quên mất dòng tư duy ban nãy vẫn còn thật giả lẫn lộn kia. Đá Thái Hồ sừng sững đứng riêng, bị tuế nguyệt mài sáng, khắc lên trên đó sắc màu của tháng năm, nó dùng tư thế thơ mộng, kể với bạn rằng có một thi nhân tên là Lục Du, đã từng ở nơi đây cô độc đợi chờ Đường Uyển. Đá Thái Hồ tang thương chép lại quá vãng đã trôi qua, cho dù bị tháng năm đẽo gọt thành trăm ngàn lỗ hổng, nhưng vẫn vì một câu chuyện cảm động, dõi nhìn từng đôi mắt mịt mờ một cách đầy tình thơ ý họa như xưa.
Một làn hương mai thanh nhã bay qua non nước xa vời vợi của lịch sử, chậm rãi ùa tới. Vấn Mai Hạm là một tòa lâu đài thủy tạ mô phỏng phong cách Tống, vì thi nhân yêu hoa mai ấy mà hành lang phong cảnh của vườn Thẩm cũng tràn đầy dấu hương của loài hàn mai. Nếu như bạn đi theo hương hoa lúc mai đương nở, thì những đóa hoa chúm chím môi cười ấy sẽ trang nhã giao hòa với bạn. Cho dù bạn đến vườn Thẩm vào những mùa khác, thì lòng bạn vẫn hướng về phong thái lạnh lùng cao ngạo dứt khoát của nàng. Một tiếng hỏi mai dẫn dắt trăm ngàn tình ý, một giai nhân yểu điệu như hoa mai đã từng nhàn tản dưới khung cửa sổ lạnh lẽo của bạn, đến nay, lại bị ai chia cắt nơi chân trời?
Lục Du nói: “Ngõ nhỏ thành nam lại vào xuân, chỉ thấy hoa mai chẳng thấy người.” Tháng ngày xanh ngăn ngắt, sắc xuân tràn ngập trên đường, Lục Du một mình dựa vào lan can ngắm hết hoa thơm, nhưng chẳng thấy dấu thơm bóng lẻ của Đường Uyển. Chỉ có hàn mai ngập lối vườn xuân ấy, dùng phong cốt đoan trang tao nhã của nàng, mấy độ hương thơm cách tuyệt tục thế, trên bờ xanh um của hồng trần, một mình nhàn nhã thanh tịnh. Hồi tưởng chỉ là sự bối rối trống trải hiện thời, dù cho có tài cao kinh thế, tấm lòng độ lượng, cũng chỉ có thể ở giữa vườn Thẩm sắc xuân giăng mắc, âm thầm hỏi thăm quá vãng thơm hương của một cây mai.
Đi trên cây cầu đá cổ kính mộc mạc trong vườn Thẩm mới hay, tên cầu là “Thương Tâm”. Hoa hạnh mưa khói, dương liễu cầu đá, vốn là những cảnh tượng dịu dàng nhất của Giang Nam, giờ đây, giữa cảnh trí tự nhiên mới mẻ này, lại có thêm ít nhiều ký ức ẩm ướt. Khi tóc trắng phơ phơ, Lục Du mới trở lại vườn Thẩm, đứng bên cạnh cầu, những tình cảm đã đè nén nhiều năm không dám chạm vào nay lần nữa tuôn trào như thác lũ, xối xả thành dòng, xoay qua chuyển lại trong sâu thẳm trái tim. Ông thảm thiết ngâm rằng: “Thương Tâm kiều hạ xuân ba lục, tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.” (Dưới cầu sóng biếc trông đứt ruột, Đây bóng hồng soi thoảng lúc nào[5]) Chính là lúc Lục Du quay đầu nhìn lại chuyện cũ tình xưa, để lại mối thương lòng ngàn lời khó tả dưới cây cầu đá vườn Thẩm. Trong mộng, chim hồng kinh sợ soi bóng, hồng nhan như xưa, tỉnh lại vườn Thẩm đã mài sáng đôi mắt mờ đục, nàng đã biến mất trong vầng sáng của trần thế.
[5] Trích trong bài Thẩm viên, kỳ nhất. Dịch thơ Khương Hữu Dụng.
Kỳ thực, kẻ thương tâm không phải cây cầu đá, cũng chẳng phải sóng xuân chảy dưới chân cầu, mà là danh sĩ cô độc đó. Bầu không sáng tỏ, vườn Thẩm thơ mộng, gió xuân xanh mát, cầu đá mát lạnh đều không mang đến bất cứ sự vấn vương ấm áp nào cho ông. Bạn chỉ cần đứng trên cầu một lát là có thể cảm nhận được cảm giác tịch liêu đến rợn người mà ông đã từng thấy. Trên cây cầu đá của vườn Thẩm, vị thi nhân đầu bạc đó làm thế nào để khắc cốt ghi tâm hồi tưởng lại giai nhân trong gương năm đó, làm thế nào để đợi chờ một cách cô quạnh hồn thơm đã đi xa đó?
Chính là như một chú hạc cô lẻ, đợi chờ bốn mùa nóng lạnh luân hồi, đợi chờ thời gian đổi thay ngày tháng, không chịu rời đi. Khi bạn đến Cô Hạc Hiên, bạn sẽ hiểu, phải có tòa hiên đình u nhã thanh cảnh như thế, mới có thể là chốn nghỉ ngơi cho linh hồn cô độc, cao ngạo của người cao sĩ ấy. Gió mây nhân gian biến ảo, nơi đây hoa soi bóng nước, người thi sĩ yêu nước phóng khoáng mà bi ai đó, thân ở giang hồ, lòng hướng giang sơn, tình thuộc vườn Thẩm.
Ông là chú hạc cô lẻ, bị khói súng lịch sử thiêu cháy, bị vận mệnh tàn khốc bỏ rơi, chỉ có quay về vườn Thẩm, mới có thể tẩy rửa sạch sẽ tấm thân mệt mỏi phong trần, ngắm bóng dáng cô độc gẩy đàn, ngâm vịnh tuyệt xướng thiên cổ. Bạn là du khách ghé qua Cô Hạc Hiên, trong tiếng đàn dìu dặt, giữa vần thơ sinh động, có lẽ có thể hiểu rõ hơn tâm sự của ông, nhưng vĩnh viễn không thể thấu tỏ được nỗi thê lương lạnh giá cõi lòng ông.
Khi bạn đến trước tấm bia đá khắc ba chữ “Thoa đầu phượng”, bất giác bạn sẽ không tránh khỏi buồn bã. Những dòng thơ gầy guộc che giấu quá nhiều chuyện cũ đằng đẵng; nỗi tiếc nuối ngàn đời đó đã chảy qua biết bao xuân thu mưa gió. Họ đã dùng khoảng thời gian ly biệt hơn mười năm ròng để đổi lấy cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, để đổi lấy ly biệt suốt cả cuộc đời.
Bao năm nay, những người nghe câu chuyện của họ đều cho rằng đánh đổi như thế là xứng đáng, còn nhân vật trong câu chuyện, họ không hề hối hận vì sự đánh đổi ấy. Đến nay, chỉ còn lại hai bài từ khắc trên bia đá cô liêu, đứng đối diện nhìn nhau, tình sâu tựa biển, một người là giai nhân “hồng tụ thiêm hương”, một người là khách thơ “hô mưa gọi gió”, họ lau lệ gượng cười trong trần thế, và dốc hết nỗi lòng than thở trong thơ từ. Những người đã qua đây đều cảm thấy trong tim mỗi người đều có một khu vườn Thẩm, đều khắc một bài “Thoa đầu phượng”, mối tình chất chứa trong bài từ khiến bạn chìm đắm mãi lâu, nhưng lại chẳng hề liên quan đến bản thân mình.
Rời khỏi khung cảnh không liên quan đến mình, nhưng chẳng còn phong cảnh nào có thể níu chân bạn lại. Mà người rời đi đó, có thực sự nhẹ nhõm thanh thản, nhàn nhã tiêu sái hay không? Trước khi đến, có lẽ bạn lo lắng mình sẽ chìm sâu vào câu chuyện vườn Thẩm, không biết có thể ra khỏi hay không.
Nhưng hễ bước qua cánh cửa ấy bạn sẽ hiểu rõ rằng, mình chỉ là bụi trần của vườn Thẩm, dù bạn có ngắm hết phong cảnh nơi đây, đến phút chót, rốt cuộc cũng chẳng qua là quẩn quanh bên ngoài cánh cửa. Bởi vì, vườn Thẩm là của Lục Du, vườn Thẩm là của Đường Uyển, bắt đầu từ một ngày xuân sắc ngập thành thời Tống đó, bắt đầu từ bài “Thoa đầu phượng” đó, cho đến ngày nay, cho đến mãi mãi sau này, đều là của họ.
Cho dù bạn có dùng phương thức gì để rời khỏi đó, đều không quan trọng nữa, bạn mang đi phong thái ngày xuân của vườn Thẩm, nhưng không thể mang đi mối tình mưa bụi của khu vườn. Vậy thì, hãy nhẹ nhàng rời đi trong cơn gió xuân ẩm ướt ở vườn Thẩm, không cần cáo từ, không cần nhìn lại, để ai ngủ say hãy tiếp tục ngủ say, để ai tỉnh táo vẫn tiếp tục tỉnh táo.
Đi về cố thổ
Có một nơi như thế, vốn là lần đầu gặp gỡ, nhưng lại khiến cho bạn cảm thấy giống như quê cũ cách biệt nhiều năm, một lần gặp gỡ ngắn ngủi, mà không sao quên nổi nhau. Đây chính là sông nước Thiệu Hưng, nó giống như một bức tranh cổ treo trên bức tường Giang Nam, miêu tả giấc mơ của những du khách qua đường lai vãng, mặc cho năm tháng để lại biết bao dấu vết cũng không làm thay đổi dáng vẻ ban đầu. Sông nước là tranh vẽ, bạn chính là từng nét chấm, nét phẩy trong đó, trong phong cảnh im lìm, bước những bước chân đầy vần điệu thơ từ, dùng sự phong tình của bản thân để nhuộm màu khắp vùng sông nước, và làm chính bản thân mình trở nên sống động hơn giữa cảnh trí sông nước này.
Tường cổ ngói xanh cũ mèm, dây leo chằng chịt, khói bếp la đà trên mái ngói đen của những tòa nhà cổ, trong không khí phảng phất mùi hương cũ kỹ của dưa muối khô, cảnh trí trước mắt là một tấm ảnh cũ đã bị bụi mờ phủ kín trong chốn sâu thẳm của thời gian, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt, khiến bạn chìm sâu vào cảm xúc hoài niệm xưa cũ, không thể tự mình thoát ra khỏi. Cho dù bạn đến từ nơi nào, bạn có duyên phận định mệnh với nơi này hay không, bạn đều cho rằng chính mình là ẩn sĩ từ phương xa quay về, có một cây cầu nhỏ cổ xưa kiên trì cố chấp đợi chờ bạn, có một dòng nước chảy trong vắt nguyện tẩy rửa bụi trần cho bạn, có một con thuyền mui đen đơn sơ sẽ chở bạn đi đến nơi mà cuộc đời bạn hướng đến. Buông hành lý nặng trĩu khỏi vai, sẽ có một giọng nói thì thầm bên tai bạn, đây không chỉ là cố hương của Lỗ Tấn, không chỉ là cố hương của rất nhiều nhân vật phong lưu trong lịch sử, mà cũng là cố hương của bạn, từ đây về sau, linh hồn bạn sẽ tá túc ở nơi này, sẽ không còn nảy sinh cảm giác nghi hoặc mình là người lữ khách qua đường nữa.
Con đường lát đá nơi đây cũng mang một luồng linh khí đến cho Giang Nam, bạn không cần nói gì cả, mà tự nó sẽ hiểu bạn muốn đi đâu. Mỗi người bước chân trên đó, đều tưởng rằng đây là đường về nhà. Thế nhưng, tại sao lại có một cảm giác quen thuộc đến dường vậy, còn có một cảm giác mát lạnh lâu ngày không gặp khẽ lách qua tim? Người thiếu niên từ đối diện đi tới, đội một chiếc mũ dạ nhỏ, trên cổ đeo một chiếc kiềng bạc sáng lóa, dáng vẻ ngại ngùng khi gặp người lạ, rõ ràng thiếu niên đó tên gọi là Nhuận Thổ[6].
[6] Nhân vật trong truyện ngắn “Cố hương” của Lỗ Tấn.
Nghe nói về sau anh cũng già đi, về sau nữa lại vì cuộc sống quẫn bách, nên đã ốm mà chết. Nhưng tại sao anh vẫn hiện ra trước mắt rõ nét như thế? Đôi mắt đen lay láy vẫn trong trẻo và sáng ngời như xưa. Xuyên qua ánh mắt lấp lánh, tựa như nhìn thấy cảnh tượng dưới trăng sáng, một tay anh cầm cây đinh ba, và một con tra luồn qua háng anh bỏ trốn.
Thời gian thật có tình có nghĩa, nó biến chàng thiếu niên cơ trí dũng cảm này “chết cứng” dưới ngòi bút của Lỗ Tấn, để mỗi một du khách đến Thiệu Hưng đều có thể lần nữa lật giở trang cổ thư bị tuế nguyệt cất giấu ấy. Nó mang đến cho bạn một khoảng hồi ức, thời gian vừa đủ, mà sau đó lại âm thầm đưa bạn đi, bạn còn chưa kịp đau buồn, thì đã có cảnh tượng tươi mới khác lấp đầy suy tư của bạn.
Ánh nắng mặt trời lúc này rất nhạt, rất thanh, nó mở to đôi mắt nhìn tất cả mọi người như bụi trần. Bạn có thể đi qua khe hở của ánh sáng và bóng nắng, tìm kiếm vẻ đẹp mà những chuyện cũ mây nước để lại nơi này. Tìm Bách Thảo Viên để nạm một khoảng xanh ngắt vào hoang mạc linh hồn, để cỏ xanh đẫm sương phẩy qua bụi bặm, kết lắng sâu tận đáy tim.
Bước vào nhà cũ của Lỗ Tấn, một mùi hương cũ kỹ của năm tháng và hơi hướm của sách vở xộc tới, bàn ghế cổ, bình hoa xưa, sàn lạnh lẽo, khung cửa sổ khắc hoa, in rõ dấu vết của thời gian, nhưng lại sạch sẽ không vương chút bụi. Đến cả không khí cũng bao phủ thời đại phồn hoa, nhớ chuyện cũ người xưa dường như đã trở thành một khuynh hướng mới mẻ, nếu không phải là thời gian truy đuổi, ai lại nỡ từ bỏ giấc mộng đầy những tình cảm ấm áp dịu dàng, lại đầy hoài niệm này mà tỉnh lại?
Đi xuyên qua hành lang là đến Bách Thảo Viên, màu xanh ngăn ngắt đến bức người ấy đã gột rửa sạch trơn tâm tình cổ xưa ban nãy, trong sinh mệnh tràn ngập hương thơm của cỏ cây, tiếng chim hót trùng kêu. Trong đầu xuất hiện mấy cảnh tượng như đám trẻ đang chơi đùa nơi đây, những ký ức mờ nhạt bắt đầu từ xa đến gần, từ mơ hồ đến rõ nét. Tuổi thơ mỗi người đều có một khu vườn Bách Thảo, trước khi rời khỏi quê hương, chúng ta đã đem tuổi ấu thơ vụng dại ấy gửi lại nơi đây, đợi nhiều năm sau khi quay trở lại, nơi này vẫn tỏa ra một mùi vị ngây thơ non nớt của thuở đó.
Từ Bách Thảo Viên đến Tam Vị Thư Ốc chỉ cách nhau một cây cầu đá, hành trình ngắn ngủi ấy đã khiến thời gian quay ngược trở lại, chuyện cũ tái hiện. Ánh dương có thể lọc tẩy vẻ đẹp, nhưng không thể khiến nó bay hơi; gió mát có thể lay tỉnh giấc mộng xưa, nhưng không thể chôn vùi nó. Nhân sinh có trăm vị, yêu hận tình thù, buồn vui sướng khổ đều nằm trong trăm vị ấy, nếm qua hết mới hiểu được thế nào là chân lý. Trong sách có ba vị[7], từng là kinh, sử, chư tử trăm nhà, đọc qua hết mới hiểu thế nào sâu sắc.
[7] Tam vị: Có hai thuyết nói về ba loại cảm nhận của người xưa đối với việc đọc sách, thứ nhất là “đọc kinh vị như lúa gạo, đọc sử vị như sơn hào hải vị. Đọc bách gia chư tử như gia vị”, thứ hai Lý Thục đời Tống nói rằng: “thi thư như canh ngọt, sử là đồ ăn ngon, tử là gia vị, gọi là ba vị.” Tam vị là sự ví von sách vở là thức ăn tinh thần cho con người.
Bước qua ngưỡng cửa, ngước mắt nhìn tấm biển treo phía trước “Tam Vị Thư Ốc”, mùi vị cổ kính thanh mát đó giống như gặp lại bạn cũ, chỉ trong sát na đã khóa lấy tâm hồn mềm yếu của bạn, muốn thoát khỏi cũng đã quá muộn rồi. Để bạn hiểu rằng, rất nhiều duyên phận trong cuộc đời đều cảm nhận thấy trong lúc vô tình, đôi khi tưởng như một cái nhìn bình thường, nhưng ý vị lại vô cùng sâu xa.
Đây là Tam Vị thư ốc của Lỗ Tấn, còn nhớ âm thanh cổ của các trường tư thục thời xưa đã đem lại những ảo tưởng vô tận cho lớp nhi đồng thời đại mới, còn nhớ một chữ “Tảo” (sáng, sớm) trên bàn học đã khiến lớp học trò nối nhau học theo, thịnh hành một thời. Đến nay có thể thực sự nhìn ngắm cảnh tượng trong mơ, nhìn dấu cũ như còn đó, lại thêm phần hoài niệm đối với người xưa. Thời gian tựa như một tấm gương sáng, quá khứ là bóng hình trong gương, thực sự tồn tại, nhưng lại không thể chạm vào, nó vĩnh viễn nhốt lại những người hoài cổ trong hồi ức.
Đều nói quá khứ hữu tình, nhưng thứ hữu tình rốt cuộc là quá khứ, hay là người truy tìm quá khứ? Trên đường đi qua quán rượu Hàm Hanh, Khổng Ất Kỷ mặc chiếc áo dài rách nát, đối diện với một dĩa đậu hồi hương[8], trên gương mặt dường như đã nở thêm một nụ cười nhàn nhạt. Ánh nắng ấm áp xua tan ngày hôm qua lạnh giá, những người đến đây đều đã đi cả rồi, chỉ còn ông vẫn kiên trì giữ gìn vẻ đẹp cũ kỹ trong quán hàng cổ kính, là do đợi chờ người khách qua đường của quá vãng đến đau lòng hay sao? Đau lòng vì ông đã lạc mất hồn phách trong vận mệnh quanh co, đau lòng vì ông say tỉnh suốt cuộc đời mơ hồ? Hay là vì ông đã nợ mười chín đồng tiền nên chẳng thể rời đi?
[8] Đậu hồi hương: Một loại đậu to như hạt cô ve, hương vị rất nồng, là một món ăn vặt ưa thích của người Thiệu Hưng.
Thực sự không biết, những người vào quán đó khi nhìn thấy tấm biển treo trên đó có viết, “Khổng Ất Kỷ, nợ mười chín đồng, ngày mùng sáu tháng ba” bằng chữ lớn, trong lòng cảm giác sẽ ra sao? Từ bao giờ, món nợ của Khổng Ất Kỷ đã trở thành đạo cụ để người đời hồi tưởng quá khứ? Thế nhưng, tại sao lại phải trưng món nợ mà một người cùng quẫn cả đời không thể trả nổi ra cho những người qua đường chỉ trỏ, bàn tán? Rõ ràng là đang nhắc nhở điều gì, hay đang ám chỉ điều gì. Có khi cũng chẳng vì điều gì, một phong cảnh như thế, những người đã từng thấy nó đều sẽ quên đi. Thế gian này có cuộc đời nào mà không nợ nhau? Chính vì nợ nhau, nên mới có duyên phận không thể tách rời. Không cần nếm chén rượu nồng của tuế nguyệt lần nữa, giữa tháng ngày ngồi im lặng trong giây lát, bạn đã say ngất ngây rồi.
Có từng say mới biết mùi vị thực sự, khi tỉnh lại mới hay ý tứ đượm nồng. Trong hoàng hôn say đắm gió xuân, chèo một chiếc thuyền mui đen đi đến một sân khấu kịch là một hành trình không thể thiếu của mỗi người khi đến vùng sông nước. Cứ xuôi dòng mà đi như thế, vứt bỏ vầng mặt trời đang lặn sau lưng, để mau mau đến kịp buổi diễn kịch dưới ánh trăng vằng vặc. Cho dù là mở màn, hay là kết thúc, thậm chí chỉ có thể đứng trong lúc chiều tàn nhìn sân khấu trống trơn, vẫn phải âm thầm đến trong sự ngưỡng mộ nhung nhớ.
Phủi đi lớp bụi thời gian, dưới ánh trăng, sân khấu sát mép nước tỏa sáng lấp lánh soi rọi bóng thời gian của khúc nhạc kịch, một chiếc thuyền mui đen neo trên dòng nước, có phải đang nghiền ngẫm ý vị buồn vui ly hợp trong vở kịch hay không? Còn đào kép trên sân khấu, đã nhìn quen cảnh khách đến khách đi, nên chẳng đợi chờ một ai. Chỉ có người xem kịch, không cẩn thận đã bị rơi vào trong muôn ngàn cảnh tượng, cố chấp không chịu rời đi. Nước đã tạo nên một cảnh tượng huyền ảo cho bạn, bạn muốn thoát khỏi cảnh tượng ấy thì buộc phải xé tan mặt nước phẳng lặng, ra đi trong sóng vỡ nát tan, để lại những mảnh trăng vỡ vụn, để những người đến sau sẽ lại lần nữa hợp thành trong mộng cảnh khác.
Dũng cảm truy tìm sự khoáng đạt trong cơn khiếp nhược, tỉnh táo truy cầu sự lĩnh ngộ trong lúc trầm mê, đời người ấy có được coi là hoàn mỹ trong khiếm khuyết? Theo đuổi ánh sáng chân chính trong bóng tối, buộc phải thắp lên ngọn lửa của tâm hồn, hành trình trở về một cách chói lọi sẽ không còn bao xa. Chiếc thuyền mui đen trên mặt nước đã bị sương sớm thấm ướt, lại được ráng chiều tô điểm, nay đội trăng đội sao, tạm dừng một khoảng thời gian ngắn ngủi trên mỗi bến đò, sau đó lại tiếp tục trôi đi trong dòng sông số phận. Khi bạn từ điểm kết thúc quay trở lại điểm khởi đầu, sinh mệnh đã không còn trẻ trung như thuở ban đầu. Tỉnh lại sau cơn hồi ức, đối diện với sự buồn bã, bạn còn có đợi chờ điều gì trong vô vọng nữa không?
Nếu như cuộc gặp gỡ rực rỡ, đã định trước chuyến ly tan quay người ra đi, bạn có hối hận vì đã từng có một lần như thế hay không? Nếu như sự quạnh quẽ của linh hồn, bạn có thể bình tĩnh hưởng thụ nỗi lạnh lẽo này chăng? Nếu như có thể, bạn hãy tìm một lý do để đeo đuổi. Ở Giang Nam sông nước như thủy mặc này, bạn thấu hiểu được sâu sắc từ trong giản đơn, nhìn thấy được ánh sáng từ trong bóng tối, thì đó chính là hy vọng của đời người.
Con ngõ viết nên kết cục ấy, có một con đường thông tới điểm khởi đầu. Khi đến, bạn ngỡ rằng đã tìm thấy cố hương, nhưng lưng đeo tay nải, bạn vẫn trở về làm một người khách qua đường như cũ.
Quyển thứ sáu: Tháng năm Dung Thành
Luôn ngỡ rằng, đô thị được gọi là “Thiên phủ chi thành” (thành phố thiên đường) - Thành Đô rất xa xôi. Khi tôi đến đây, mới hay rằng, kỳ thực khoảng cách đó chẳng qua chỉ là một chặng non xanh nước biếc. Nơi đây còn được gọi là Dung Thành, đó không phải mỹ nhân như hoa, xa tít tận tầng mây mù; cũng chẳng phải là trăng sáng mênh mang, rơi tận sâu đáy nước trong vắt. Mà là một vùng khói lửa dịu mềm, lãng đãng trong những đường ngõ thơ mộng, chảy trôi trên đường Đàn Đài cổ kính, bao trùm trên những cầu mái xây mộng. Thời gian của Thành Đô sẽ không quay cuồng ca múa, mà nó lặng lẽ đậu trên từng cành cây, ngâm trong từng chén trà. Tôi là cô gái giản dị đó, nhàn tản dạo bước ở Thành Đô, cùng Thành Đô đi một đoạn tháng năm thơm nồng.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian